Âm ngữ trị liệu là gì? Các công bố khoa học về Âm ngữ trị liệu

Âm ngữ trị liệu là một lĩnh vực chuyên môn trong y tế và giáo dục, tập trung vào việc đánh giá và điều trị các rối loạn ngôn ngữ, giọng nói, lời nói, và giao tiếp. Các rối loạn bao gồm ngôn ngữ, giọng nói, lời nói và giao tiếp xã hội, thường được điều trị qua các phương pháp như bài tập phát âm, liệu pháp ngôn ngữ, huấn luyện giọng nói và giao tiếp thay thế và bổ trợ. Nhà âm ngữ trị liệu làm việc trong bệnh viện, trường học và tổ chức xã hội, giúp bệnh nhân cải thiện khả năng giao tiếp, nâng cao chất lượng cuộc sống và khả năng hòa nhập xã hội.

Giới thiệu về Âm Ngữ Trị Liệu

Âm ngữ trị liệu là một lĩnh vực chuyên môn trong ngành y tế và giáo dục, tập trung vào việc đánh giá, chẩn đoán, và điều trị các rối loạn về ngôn ngữ, giọng nói, lời nói, và giao tiếp. Chuyên gia trong lĩnh vực này được gọi là nhà âm ngữ trị liệu, họ làm việc với những người gặp khó khăn trong việc giao tiếp hiệu quả.

Các Rối Loạn Thường Gặp

Âm ngữ trị liệu thường can thiệp vào nhiều loại rối loạn khác nhau, bao gồm:

  • Rối loạn ngôn ngữ: Gồm các vấn đề về khả năng hiểu và sử dụng ngôn ngữ. Những cá nhân mắc rối loạn này có thể gặp khó khăn trong việc diễn đạt ý tưởng hoặc hiểu nội dung giao tiếp của người khác.
  • Rối loạn giọng nói: Bao gồm những rối loạn ảnh hưởng đến chất lượng, cao độ, và âm lượng của giọng nói. Các vấn đề thường gặp bao gồm khản tiếng, giọng mũi, hoặc mất giọng.
  • Rối loạn lời nói: Là khi một người gặp khó khăn trong việc phát âm các âm vị hoặc có phát âm ngọng, líu lưỡi.
  • Rối loạn giao tiếp xã hội: Là những vấn đề liên quan đến việc sử dụng ngôn ngữ trong các bối cảnh giao tiếp xã hội khác nhau, như không hiểu các quy tắc khi giao tiếp hoặc không thể tham gia vào các cuộc hội thoại linh hoạt.

Các Phương Pháp Điều Trị

Các phương pháp điều trị âm ngữ trị liệu thường được thiết kế đặc thù cho từng cá nhân dựa trên loại và mức độ nghiêm trọng của rối loạn. Một số phương pháp điều trị phổ biến bao gồm:

  • Bài tập phát âm: Giúp cải thiện khả năng phát âm và làm rõ lời nói.
  • Liệu pháp ngôn ngữ: Dành cho những người gặp khó khăn trong việc xây dựng câu hoặc sử dụng từ ngữ, tập trung vào việc cải thiện kỹ năng ngôn ngữ.
  • Huấn luyện giọng nói: Giúp cải thiện âm lượng, cao độ, và chất lượng của giọng nói thông qua các bài tập điều chỉnh hơi thở và âm thanh.
  • Giao tiếp thay thế và bổ trợ (AAC): Sử dụng các thiết bị công nghệ hoặc ký hiệu để hỗ trợ giao tiếp cho những người không có khả năng nói chuyện thông thường.

Vai Trò của Nhà Âm Ngữ Trị Liệu

Nhà âm ngữ trị liệu là những chuyên gia có trình độ chuyên môn cao, thường làm việc trong bệnh viện, trường học, phòng khám tư nhân, và các tổ chức xã hội. Họ thực hiện các bước đánh giá chuyên sâu để xác định loại và mức độ rối loạn, xây dựng kế hoạch điều trị phù hợp và theo dõi tiến trình của bệnh nhân.

Kết Luận

Âm ngữ trị liệu đóng một vai trò quan trọng trong việc cải thiện khả năng giao tiếp cho những người gặp rối loạn về ngôn ngữ và lời nói. Bằng cách sử dụng các phương pháp điều trị đa dạng và tùy chỉnh, nhà âm ngữ trị liệu giúp bệnh nhân phát triển kỹ năng giao tiếp, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống và khả năng hòa nhập xã hội.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "âm ngữ trị liệu":

Cảm biến từ xa vệ tinh cho quản lý tài nguyên nước: Tiềm năng hỗ trợ phát triển bền vững ở các khu vực thiếu dữ liệu Dịch bởi AI
Water Resources Research - Tập 54 Số 12 - Trang 9724-9758 - 2018
Tóm tắt

Quản lý tài nguyên nước (WRM) nhằm phát triển bền vững gặp nhiều thách thức ở các khu vực có mạng lưới giám sát thực địa thưa thớt. Sự tăng trưởng theo cấp số nhân của thông tin dựa trên vệ tinh trong thập kỷ qua đã cung cấp cơ hội chưa từng thấy để hỗ trợ và cải thiện WRM. Hơn nữa, những rào cản truyền thống đối với việc tiếp cận và sử dụng dữ liệu vệ tinh đang dần giảm bớt khi những đổi mới công nghệ cung cấp cơ hội quản lý và phân phối nguồn thông tin phong phú này đến với nhiều đối tượng hơn. Chúng tôi xem xét nhu cầu dữ liệu cho WRM và vai trò mà cảm biến từ xa vệ tinh có thể đóng góp để lấp đầy khoảng trống và nâng cao WRM, tập trung vào khu vực Mỹ Latinh và Caribe làm ví dụ cho một khu vực có tiềm năng phát triển tài nguyên của mình hơn nữa và giảm thiểu tác động của các mối nguy thủy văn. Chúng tôi đánh giá công nghệ hiện tại cho các biến số liên quan, các nhiệm vụ vệ tinh hiện tại và sản phẩm, cách chúng đang được các cơ quan quốc gia trong khu vực Mỹ Latinh và Caribe sử dụng hiện nay, cũng như các thách thức trong việc cải thiện tính hữu dụng của chúng. Chúng tôi thảo luận về tiềm năng của các nhiệm vụ mới được ra mắt, sắp được triển khai và dự kiến có thể cải thiện và biến đổi việc đánh giá và giám sát tài nguyên nước. Những thách thức liên tục về độ chính xác, mẫu và tính liên tục vẫn cần được giải quyết, và những thách thức thêm về khối lượng dữ liệu khổng lồ mới cần vượt qua để tận dụng tốt nhất tiện ích của thông tin dựa trên vệ tinh trong việc cải thiện WRM.

Tham gia của người sử dụng ma túy trong phát triển chính sách và chương trình: Một tổng quan tài liệu Dịch bởi AI
Substance Abuse Treatment, Prevention, and Policy - Tập 7 Số 1 - 2012
Tóm tắt

Các chính sách và chương trình sức khỏe ngày càng được thúc đẩy bởi những người trong cộng đồng nhằm đáp ứng hiệu quả hơn các nhu cầu của họ. Trong khi một khối lượng lớn bằng chứng hỗ trợ việc tham gia của đồng đẳng trong bối cảnh phát triển chính sách và chương trình cho nhiều nhóm dân cư khác nhau, kiến thức về hình thức tham gia này trong số những người sử dụng ma túy (PWUD) vẫn còn hạn chế. Do đó, một tổng quan tài liệu đã được thực hiện để cung cấp cái nhìn tổng quát về chủ đề này. Các tìm kiếm trên cơ sở dữ liệu PubMed và Academic Search Premier từ năm 1995 đến 2010 đã được thực hiện để xác định các bài viết đánh giá sự tham gia của đồng đẳng trong phát triển chính sách và chương trình. Tổng cộng có 19 bài viết được đưa vào xem xét. Các phát hiện của chúng tôi chỉ ra rằng PWUD phải đối mặt với nhiều thách thức hạn chế khả năng tham gia của họ với các chuyên gia sức khỏe cộng đồng và các nhà hoạch định chính sách, bao gồm mức độ kỳ thị và phân biệt đối xử cao vẫn tồn tại trong cộng đồng này. Mặc dù tài liệu cho thấy rằng nhiều tổ chức quốc tế đang khuyến nghị sự tham gia của PWUD trong phát triển chính sách và chương trình, nhưng các phát hiện của chúng tôi đã tiết lộ sự thiếu hụt dữ liệu đã được công bố về việc thực hiện những nỗ lực này. Những khoảng trống trong bằng chứng hiện tại nhấn mạnh nhu cầu thực hiện nghiên cứu bổ sung để khám phá và ghi nhận sự tham gia của PWUD trong các lĩnh vực phát triển chính sách và chương trình. Hơn nữa, các nỗ lực để giảm thiểu những rào cản kỳ thị liên quan đến việc sử dụng ma túy bất hợp pháp là hết sức cần thiết nhằm cải thiện sự tham gia của PWUD trong các quá trình ra quyết định.

#Sử dụng ma túy #chính sách sức khỏe #phát triển chương trình #tham gia của đồng đẳng #kỳ thị đối với người sử dụng ma túy
Dấu hiệu ngôn ngữ biểu hiện chiến lược lịch sự trong phát biểu chính trị Anh và Mỹ: hướng tiếp cận khối liệu
Bài viết tìm hiểu việc sử dụng các dấu hiệu ngôn ngữ biểu hiện chiến lược lịch sự trong diễn ngôn chính trị Anh và Mỹ bằng phương pháp phân tích khối liệu. Các dấu hiệu biểu hiện chiến lược lịch sự dương tính và âm tính trong phát biểu chính trị Anh và Mỹ được thu thập để phân tích so sánh. Kết quả nghiên cứu cho thấy các dấu hiệu lịch sự trong các phát biểu chính trị này được thể hiện qua các cấu trúc ngôn ngữ chứa đựng các động từ, tính từ và trạng từ tình thái. Các dấu hiệu ngôn ngữ biểu hiện chiến lược lịch sự dương tính xuất hiện nhiều trong khối liệu diễn ngôn chính trị Mỹ hơn, trong khi đó các dấu hiệu ngôn ngữ biểu hiện chiến lược lịch sự âm tính được sử dụng với tần suất cao hơn trong khối liệu diễn ngôn chính trị Anh. Như vậy, có thể nhận định rằng các chính trị gia Mỹ có xu hướng sử dụng chiến lược lịch sự dương tính, ngược lại các chính trị gia Anh thiên về chiến lược lịch sự âm tính.
#lịch sự #tình thái #khối liệu #dương tính #âm tính
Xây dựng phác đồ điều trị âm ngữ trị liệu cho trẻ bị khe hở môi, vòm miệng và hiệu quả ứng dụng tại Bệnh viện Nhi Đồng 1 năm 2014
800x600 Qua quá trình can thiệp âm ngữ trị liệu cho 79 ca (từ 01-01-2014   đến 11-2014) dựa trên nguyên tắc lấy bệnh nhân làm trung tâm, chúng tôi nhận thấy cần cung cấp dịch vụ xuyên suốt, từ tư vấn tiền sản đến can thiệp bú - nuốt, và cần có chương trình huấn luyện Ngôn ngữ - Chỉnh âm. Ở mỗi giai đoạn trong quá trình can thiệp, cần có mục tiêu và kế hoạch cụ thể. Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi cho rằng: để có được kết quả tối ưu khi điều trị cho trẻ có khe hở môi - vòm miệng, trẻ cần được chăm sóc can thiệp bởi đội ngũ làm việc đa ngành: bác sĩ răng-hàm-mặt, bác sĩ nhi khoa, điều dưỡng, chuyên viên âm ngữ trị liệu, giáo viên và phụ huynh. Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Calibri","sans-serif";}
#khe hở môi vòm miệng #phác đồ điều trị khe hở môi vòm miệng #âm ngữ trị liệu trẻ bị khe hở môi vòm miệng #hiệu quả của việc ứng dụng
ALGOBOT – MỘT HỆ THỐNG CHATBOT HỖ TRỢ GIẢI ĐÁP CÁC KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ CẤU TRÚC DỮ LIỆU VÀ GIẢI THUẬT
                                                                                             Trong kỉ nguyên thông tin, bên cạnh việc học ở trường lớp, việc tự học lập trình của học sinh, sinh viên đã trở nên dễ dàng hơn rất nhiều với những tài liệu cơ bản về lập trình, mà cụ thể hơn là về cấu trúc dữ liệu và giải thuật trong lập trình. Tuy nhiên, những tài liệu này thường không được trình bày bằng tiếng Việt, khiến cho người học không có nền tảng tiếng Anh tốt khó lòng tiếp cận và khai thác nguồn tri thức quý giá này. Xuất phát từ cơ sở đó, bài báo này tiến hành thử nghiệm và phát triển hệ thống Algobot, một Non-task-oriented Retrieval-based Chatbot sử dụng tiếng Việt để hỗ trợ cho người học nâng cao hiệu quả tự học lập trình trong việc giải đáp các kiến thức cơ bản về cấu trúc dữ liệu và giải thuật. Kết quả đánh giá cho thấy hướng tiếp cận đề xuất việc phát triển Algobot như một Non-task-oriented Retrieval-based Chatbot là hoàn toàn khả thi và cho kết quả khả quan.  
#dạy học lập trình #cấu trúc dữ liệu và giải thuật #chatbot tiếng Việt trong giáo dục #xử lí ngôn ngữ tự nhiên tiếng Việt #hệ thống trả lời câu hỏi tiếng Việt
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG RỐI LOẠN TRẦM CẢM Ở NGƯỜI BỆNH VẢY NẾN ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN DA LIỄU TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 2 - 2021
Đặt vấn đề: Trầm cảm là bệnh lý đi kèm thường gặp ở người bệnh vảy nến, trầm cảm làm triệu chứng vảy nến nặng hơn, biến chứng xảy ra nhiều hơn, giảm tuân thủ điều trị, tăng nguy cơ tử vong và tự sát trên người bệnh. Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm lâm sàng rối loạn trầm cảm ở người bệnh vảy nến điều trị nội trú tại bệnh viện Da Liễu Trương Ương. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 122 người bệnh vảy nến điều trị tại bệnh viện Da Liễu Trung Ương từ tháng 08/2020 đến tháng 08/2021. Kết quả: Đối tượng nghiên cứu bệnh nhân nam nhiều hơn bệnh nhân nữ chiếm tỷ lệ 68,9% so với nữ là 31,1%; độ tuổi trung bình 51,02 ± 15,79; nơi sinh sống chủ yếu ở nông thôn (55,7%); trình độ học vấn trung học phổ thông (41%). Có 26,2% người bệnh có rối loạn trầm cảm theo ICD – 10, trong đó trầm cảm nhẹ chiếm 13,9%; triệu chứng khởi phát hay gặp nhất tự ti (46,9%); trong các triệu chứng đặc trưng đặc trưng của trầm cảm, khí sắc trầm là hay gặp nhất (96,9%); trong các triệu chứng phổ biến của trầm cảm, hay gặp nhất là giảm tính tự trọng và lòng tự ti (100%) và rối loạn giấc ngủ (90,6%). Kết luận: Trầm cảm thường khởi phát đầu tiên bởi tự ti về bản thân. Triệu chứng đặc trưng hay gặp nhất là khí sắc trầm, triệu chứng phổ biến hay gặp là giảm sút tính tự trong, lòng tự tin và rối loạn giấc ngủ.
#trầm cảm #vảy nến #đặc điểm lâm sàng
XÂY DỰNG CÔNG CỤ CHUYỂN ĐỔI CẤU TRÚC DỮ LIỆU THUỘC TÍNH ĐỊA CHÍNH PHỤC VỤ HOÀN THIỆN CƠ SỞ DỮ LIỆU ĐỊA CHÍNH TẠI QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH: BUILDING A TOOL TO CONVERT STRUCTURE OF CADASTRAL ATTRIBUTE DATA FOR COMPLETING THE CADASTRAL DATABASE IN DISTRICT 6, HO CHI MINH CITY
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp - Tập 4 Số 3 - Trang 2140-2150 - 2020
Là đơn vị tiên phong xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính từ năm 2006, nên cấu trúc cơ sở dữ liệu địa chính của Quận 6-TP.HCM hiện không phù hợp với quy chuẩn hiện hành theo thông tư 75/2015/TT-BTNMT và không đồng bộ với cấu trúc dữ liệu địa chính của các địa phương khác. Điều này gây nhiều khó khăn trong vận hành cơ sở dữ liệu địa chính, đặc biệt trong đồng bộ cơ sở dữ liệu các cấp. Với nhiều phương pháp, nghiên cứu đã (1) phân tích khác biệt về cấu trúc dữ liệu địa chính cũ theo Thông tư 17/2010/TT-BTNMT với cấu trúc mới theo Thông tư 75/2015/TT-BTNMT; (2) xây dựng bộ cấu trúc dữ liệu thuộc tính địa chính mới trên Microsoft SQL Server; (3) ứng dụng C#.Net xây dựng công cụ chuyển đổi cấu trúc dữ liệu thuộc tính địa chính; (4) chuyển đổi thành công cơ sở dữ liệu thuộc tính địa chính của Phường 9 (với 12.196 bản ghi) sang cấu trúc mới một cách đầy đủ, chính xác, nhanh chóng và hoàn toàn tự động. Kết quả đạt được giúp tiết kiệm thời gian, kinh phí và nhân lực trong quá trình chuyển đổi dữ liệu nhưng vẫn đảm bảo độ chính xác và toàn vẹn cho cơ sở dữ liệu địa chính. Đây là tiền đề thuận lợi để đồng bộ hóa dữ liệu địa chính các cấp, góp phần hoàn thiện cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia và phù hợp với chiến lược của ngành về tăng cường năng lực quản lý Tài nguyên và Môi trường trong thời gian tới. ABSTRACTAs one of the first units which built cadastral databases since 2006, the structure of cadastral database of District 6 - HCMC is not suitable for the current regulation at Circular No. 75/2015/TT-BTNMT as well as does not synchronize with the database structure of other localities. This caused many difficulties in operating and sharing cadastral database, especially in the process of synchronizing cadastral databases at all levels. With many methods, the study has achieved these results such as: (1) Analyzing the differences in cadastral data structures between Circular 17/2010/TT-BTNMT and Circular 75/2015/TT-BTNMT; (2) Using Microsoft SQL Server Database Management System to create the new structure of cadastral attribute database for District 6; (3) Using C#.Net programming language in building the tool to convert the structure of cadastral attribute data; (4) Successfully testing in converting this database for one ward of District 6 (case study in Ward 9) from existing structure to the new one; and this whole process was carried out fully, accurately, easily, quickly and completely automatically. Those results helped save time, money and human resources in converting data but ensure the accuracy and integrity of the cadastral database. This is a favorable premise for the process of synchronizing cadastral data structure at all levels, contributing to complete the national centralized land database, in line with MONRE's strategy in strengthening the capacity of natural resources and environmental management of Vietnam in the near future.
#Cơ sở dữ liệu địa chính #Dữ liệu thuộc tính địa chính #Cấu trúc dữ liệu #Ngôn ngữ lập trình C#.Net #Quận 6 TP.HCM #Cadastral database #Cadastral attribute data #Data structure #C#.Net programming language #District 6 HCMC
SO SÁNH HIỆU QUẢ PHỤC HỒI VẬN ĐỘNG SAU ĐỘT QUỴ CỦA CHÂM CỨU CẢI TIẾN CƯỜNG ĐỘ THẤP VỚI CHÂM CỨU CẢI TIẾN CƯỜNG ĐỘ CAO TRONG PHÁC ĐỒ CHÂM CỨU CẢI TIẾN VẬT LÝ TRỊ LIỆU – THUỐC BỔ DƯƠNG HOÀN NGŨ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 519 Số 2 - 2022
Đặt vấn đề: Đã có nhiều công bố khoa học về hiệu quả phục hồi liệt sau đột quỵ của Châm Cứu Cải Tiến (CCCT) 1 lần/ ngày (CCCT cường độ thấp). Mục tiêu: so sánh hiệu quả phục hồi vận động và cải thiện sinh hoạt hàng ngày các bệnh nhân liệt sau đột quỵ giữa phác đồ CCCT cường độ thấp + Vật lý trị liệu (VLTL) + thuốc Bổ dương hoàn ngũ thang (BDHNT) với phác đồ CCCT cường độ cao (CCCT 2 lần/ ngày) + VLTL + BDHNT. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm, mở, có đối chứng, phân bố ngẫu nhiên. Bệnh nhân liệt ½ người sau đột quỵ, đã qua giai đoạn cấp, đạt tiêu chuẩn chọn và không có tiêu chuẩn loại trừ được phân ngẫu nhiên vào 2 nhóm chứng và can thiệp. Tất cả người tham gia được theo dõi và đánh giá 3 lần (trước, sau điều trị 10 ngày và 20 ngày). Kết quả: Cải thiện ở nhóm can thiệp tốt hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Chỉ số Barthel tăng thêm 36,97 điểm so với 21,91 điểm; FMA chi trên tăng 247% so với 56,48%; FMA chi dưới tăng 97,35% so với 66,15%; test 9 lỗ tăng 26,5% so với 10,5%; đi bộ 2 phút có hỗ trợ tăng gấp 26,91 lần so với 23,45 lần sau 20 ngày điều trị. Kết luận: CCCT cường độ cao trong 20 ngày (trong phác đồ phối hợp với tập vận động và thuốc YHCT) có hiệu quả cải thiện phục hồi vận động và cải thiện hoạt động trong sinh hoạt thường ngày tốt hơn CCCT cường độ thấp.
#Châm cứu cải tiến-CCCT #chỉ số Barthel #FMA #test 9 lỗ #test đi bộ 2 phút #liệt ½ người sau đột quỵ
Đánh giá các chương trình lao động nước ngoài tạm thời qua lăng kính của Chương trình Lao động Nông nghiệp Mùa vụ Canada: liệu có thể cải cách hay nên bị loại bỏ? Dịch bởi AI
Dialectical Anthropology - Tập 43 - Trang 347-366 - 2019
Bài báo này đánh giá các Chương trình Lao động Nước ngoài Tạm thời (TFWPs) thông qua lăng kính của Chương trình Lao động Nông nghiệp Mùa vụ Canada (SAWP), thường được coi là một mô hình nhờ vào nhiều quyền lợi được cấp cho người lao động và nhiều hình thức bảo vệ được thiết lập để bảo vệ những quyền lợi đó. Một nghiên cứu cẩn thận về các tài liệu nhân học và xã hội học hiện có, bao gồm cả công trình của tác giả, cho thấy sức mạnh to lớn mà các nhà sản xuất nắm giữ đối với lao động nước ngoài tạm thời đến từ Mexico và nhiều quốc gia vùng Caribbean nói tiếng Anh. Hai hệ quả của sức mạnh này là sự gia tăng năng suất và sự mở rộng của SAWP, đến mức nó chiếm ưu thế trong các lĩnh vực chính của nông nghiệp Canada. Người lao động hoặc không được tham gia vào các công đoàn, hoặc bị trừng phạt, trong một số trường hợp, thông qua việc bị đưa vào danh sách đen vì đã thành lập các đơn vị đàm phán địa phương. Tác giả đề xuất rằng tất cả các chương trình như vậy nên được giải thể. Ít nhất, câu hỏi về tương lai của TFWPs xứng đáng được thảo luận một cách cởi mở và thẳng thắn.
#Lao động nước ngoài tạm thời #Chương trình Lao động Nông nghiệp Mùa vụ #quyền lợi người lao động #sản xuất nông nghiệp #Canada.
Nguy cơ nhập viện tâm thần trong một năm và chi phí điều trị liên quan ở bệnh nhân rối loạn lưỡng cực được điều trị bằng thuốc chống loạn thần không điển hình: phân tích cơ sở dữ liệu yêu cầu hồi cứu Dịch bởi AI
BMC Psychiatry - Tập 11 - Trang 1-9 - 2011
Nghiên cứu này so sánh nguy cơ nhập viện tâm thần trong một năm và chi phí điều trị ở những bệnh nhân rối loạn lưỡng cực được bảo hiểm thương mại, được điều trị bằng aripiprazole, ziprasidone, olanzapine, quetiapine hoặc risperidone. Đây là một nghiên cứu hồi cứu theo phương pháp ghép điểm xu hướng với bộ dữ liệu yêu cầu bảo hiểm tích hợp Ingenix Lab/Rx. Các bệnh nhân mắc rối loạn lưỡng cực có 180 ngày tham gia trước khi chỉ định mà không có tiếp xúc với thuốc chống loạn thần đã được theo dõi trong vòng 12 tháng sau khi đơn thuốc chống loạn thần ban đầu. Phân tích chính sử dụng hồi quy Cox đồng tỷ lệ để đánh giá nguy cơ nhập viện theo thời gian, điều chỉnh theo tuổi, giới tính và tiền sử nhập viện trước chỉ định. Hồi quy gamma tổng quát đã so sánh chi phí sau chỉ định giữa các nhóm điều trị. So với aripiprazole, ziprasidone, olanzapine và quetiapine có nguy cơ nhập viện cao hơn (tỷ lệ nguy cơ 1.96, 1.55 và 1.56, tương ứng; p < 0.05); risperidone có nguy cơ cao hơn về mặt số học nhưng không khác biệt thống kê (tỷ lệ nguy cơ 1.37; p = 0.10). Chi phí điều trị sức khỏe tâm thần thấp hơn đáng kể đối với aripiprazole so với ziprasidone (p = 0.004) và quetiapine (p = 0.007), nhưng không khác so với olanzapine (p = 0.29) hoặc risperidone (p = 0.80). Tổng chi phí chăm sóc sức khỏe thấp hơn đáng kể đối với aripiprazole so với quetiapine (p = 0.040) nhưng không khác so với các thuốc so sánh khác. Ở những người trưởng thành được bảo hiểm thương mại mắc rối loạn lưỡng cực theo dõi trong 1 năm sau khi khởi đầu điều trị thuốc chống loạn thần không điển hình, việc điều trị bằng aripiprazole có liên quan đến nguy cơ nhập viện tâm thần thấp hơn so với ziprasidone, quetiapine, olanzapine và risperidone, mặc dù không đạt ý nghĩa với nhóm sau. Aripiprazole cũng liên quan đến tổng chi phí chăm sóc sức khỏe thấp hơn đáng kể so với quetiapine, nhưng không so với các thuốc so sánh khác.
#rối loạn lưỡng cực #thuốc chống loạn thần không điển hình #nhập viện tâm thần #chi phí điều trị #phân tích cơ sở dữ liệu yêu cầu
Tổng số: 27   
  • 1
  • 2
  • 3